Nông nghiệp phát triển toàn diện và bền vững
(QT) - Đất nước tham gia hội nhập kinh tế ngày càng sâu và toàn diện. Bên cạnh việc phấn đấu để phát triển cùng cả nước trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh Quảng Trị vẫn được xác định có vị trí quan trọng đảm bảo sự ổn định xã hội, phát triển toàn diện theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Từ đó, tỉnh tiếp tục tập trung chỉ đạo và đầu tư các nguồn lực cần thiết cho ngành nông nghiệp khai thác tốt lợi thế đất đai và lao động để ...

Nông nghiệp phát triển toàn diện và bền vững

(QT) - Đất nước tham gia hội nhập kinh tế ngày càng sâu và toàn diện. Bên cạnh việc phấn đấu để phát triển cùng cả nước trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh Quảng Trị vẫn được xác định có vị trí quan trọng đảm bảo sự ổn định xã hội, phát triển toàn diện theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Từ đó, tỉnh tiếp tục tập trung chỉ đạo và đầu tư các nguồn lực cần thiết cho ngành nông nghiệp khai thác tốt lợi thế đất đai và lao động để tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Sự đầu tư toàn diện cho ngành nông nghiệp đã giúp người nông dân có trình độ canh tác cao, tính toán nhanh nhạy hơn và khả năng tạo ra sản phẩm hàng hóa ngày càng nhiều. Vừa chú trọng mở rộng diện tích và vừa tăng đầu tư thâm canh nên năng suất, sản lượng các loại cây trồng tăng đáng kể. Năng suất lúa từ 18,5 tạ/ha năm 1990 tăng lên 46,3 tạ/ha năm 2011, tăng 2,5 lần. Sản lượng lúa năm 2011 đạt 224.675 tấn, tăng 2,42 lần so với năm 1990. Sau 22 năm, diện tích các loại cây công nghiệp dài ngày tăng từ 3- 5 lần và sản lượng tăng lên hàng chục lần so với thời kỳ đầu mới lập lại tỉnh. Đến năm 2011, diện tích cao su đạt 17.088 ha, sản lượng 14.295 tấn, diện tích cà phê 4.809 ha, sản lượng 6.477 tấn, 2.003 ha hồ tiêu, sản lượng 1.649 tấn, diện tích lạc 4.491,4 ha, sản lượng 5.894 tấn... Sự hình thành các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp tạo ra các vùng nguyên liệu ổn định phục vụ cho công nghiệp chế biến phát triển, từ đó cũng làm thay đổi đáng kể đời sống của nông dân, ngày càng xuất hiện nhiều hơn những “triệu phú” nông dân làm giàu từ nông nghiệp.

Đưa cơ giới vào đồng ruộng, nâng cao hiệu quả sản xuất. -Ảnh: H.V.A

Trong chăn nuôi, việc ứng dụng các tiến bộ KH-KT đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Đến nay tỷ lệ đàn bò lai đạt hơn 20%, tỷ lệ đàn lợn nuôi thịt theo hướng nạc đạt trên 90%. Phong trào nuôi bò nhốt thâm canh kết hợp với trồng cỏ, nuôi lợn siêu nạc theo hình thức gia trại, trang trại đang phát triển rộng khắp. So với năm 1990, đến năm 2011 tổng các đàn gia súc, gia cầm tăng từ 35-50%, đàn lợn 229.103 con, tăng 49,8%, đàn trâu 26.789 con, tăng 30,2%, đàn bò 53.025 con, tăng 42%, đàn gia cầm 1.796.440 con, tăng 38,7%. Sản lượng thịt hơi tăng 2,26 lần. Sản xuất lâm nghiệp đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ chủ yếu là các đơn vị quốc doanh sang lâm nghiệp xã hội với việc giao đất, khoán rừng cho các hộ gia đình và các thành phần kinh tế quản lý, bảo vệ và xây dựng vốn rừng. Đến nay, toàn tỉnh đã trồng được trên 87.000 ha rừng tập trung. Công tác quản lý và bảo vệ rừng được chú trọng, nhờ đó đã hạn chế tình trạng phá rừng, đưa độ che phủ của rừng từ 19% năm 1989 lên 46,7% năm 2011. Sản lượng gỗ khai thác mỗi năm từ2.000- 3.000 ha rừng trồng làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến gỗ trên địa bàn cũng đưa lại cho nông dân những khoản thu nhập đáng kể giúp cho họ yên tâm với nghề rừng.... Thuỷ sản phát triển trở thành ngành kinh tế mạnh của tỉnh. Tổng sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản năm 2011 đã tăng lên 2,03 lần so với năm 1990, từ 8.375 tấn tăng lên 24.742 tấn. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh về diện tích, năng suất, sản lượng trên tất cả các vùng, miền, trở thành nghề sản xuất hàng hoá có giá trị kinh tế cao. Đến năm 2011, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản đạt 3.068 ha. Cơ sở hạ tầng nghề cá được tiếp tục đầu tư. Công tác chuyển giao tiến bộ KH-KT trong lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản được chú trọng đã giúp tăng nhanh sản lượng, năng suất, chất lượng cũng như giá trị sản xuất, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống của nhiều hộ nông ngư dân, XĐGN, phát triển kinh tế- xã hội và xây dựng nông thôn mới. Để tạo được những vùng chuyên canh bền vững, ngành Nông nghiệp và PTNT tỉnh đã đầu tư khá đồng bộ xây dựng, nâng cấp, cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống như các công trình thuỷ lợi, giao thông nông thôn. Trong những năm qua, đã nâng cấp, xây dựng mới trên 300 công trình thuỷ lợi lớn, nhỏ. Hệ thống kênh tưới, tiêu cũng không ngừng được đầu tư xây dựng, tổng chiều dài hơn 1.500 km, góp phần tưới chủ động trên 80% diện tích gieo cấy cho 2 vụ lúa; tiêu úng cho 5.000 ha, ngăn mặn, giữ ngọt, ngăn lũ. Đồng thời, xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ cho miền núi để tăng cường tưới cho vùng sâu, vùng xa. Việc đầu tư xây dựng tốt hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đã làm chuyển đổi cơ bản điều kiện sản xuất nông nghiệp, tạo sự chủ động trong sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Các hoạt động sản xuất, cung ứng, dịch vụ vật tư, kỹ thuật, giống cây trồng vật nuôi, thú y, bảo vệ thực vật, khuyến nông... đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sản xuất. Nền nông nghiệp Quảng Trị trong quá trình hình thành nên các vùng chuyên canh, ngoài mục tiêu lợi ích kinh tế còn quan tâm đến tính bền vững, yếu tố bảo vệ môi trường sinh thái, bởi sản phẩm nông nghiệp có giá trị hàng hóa cao phải đạt các yếu tố về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Kết quả vượt bậc của ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Trị còn nhờ ứng dụng rộng rãi các tiến bộ KH-KT, đặc biệt là về giống, phân bón, kỹ thuật canh tác, chăn nuôi... từng bước làm biến đổi diện mạo sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, năng suất, chất lượng ngày càng cao. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành đa dạng và năng động, nhiều thành phần như kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế hợp tác, kinh tế hộ, kinh tế trang trại đều phát triển đan xen hỗ trợ lẫn nhau. Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư xây dựng, làm cho bộ mặt, cảnh quan, môi trường nông thôn ngày càng khởi sắc, góp phần xoá đói giảm nghèo theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn mới đặt ra rất nặng nề. Tỉnh tiếp tục giữ vững và tăng diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt, tăng tỷ trọng diện tích lúa chất lượng cao 15.000 ha đến năm 2015. Mở rộng diện tích và thâm canh tăng năng suất các loại cây trồng có tiềm năng lợi thế để phục vụ cho công nghiệp chế biến và tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản. Chú trọng phát triển các cây đặc sản, truyền thống để tận dụng đất, tăng thu nhập cho nông dân. Phát triển chăn nuôi gia súc theo hướng thâm canh. Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, bảo đảm an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi trường. Đẩy mạnh phát triển thuỷ sản cả nuôi trồng lẫn đánh bắt, chế biến và xuất khẩu. Phấn đấu đạt diện tích nuôi trồng thuỷ sản 5.000 - 7.000 ha vào năm 2015. Tập trung khoanh nuôi bảo vệ vốn rừng, đẩy mạnh trồng rừng kinh tế, bình quân mỗi năm trồng trên 4.000 ha. Chuyển một số diện tích đất rừng sản xuất đủ điều kiện sang trồng cao su. Đẩy mạnh việc giao đất, giao rừng đến tận hộ nông dân. Đẩy mạnh việc ứng dụng KH-KT vào sản xuất, coi đây là khâu then chốt để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình giống, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Tăng cường công tác đào tạo nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ nông nghiệp. Thực hiện chương trình xúc tiến thương mại tiêu thụ nông sản hàng hoá, liên kết chặt chẽ 4 nhà trong quá trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng CN-TTCN, ngành nghề và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản gắn với vùng nguyên liệu, tạo cơ sở và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao giá trị sản xuất. Tập trung cao hơn nữa các nguồn lực để tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn như thuỷ lợi, giao thông nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường, các cơ sở hậu cần nghề cá... Tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn như doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác, trang trại, gia trại, tạo điều kiện để khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đan xen hỗ trợ lẫn nhau, tạo thêm ngành nghề, việc làm mới, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.... Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các vùng nguyên liệu rộng lớn và liên kết chặt chẽ “4 nhà” để tạo nguồn lực và sự chủ động cho sựphát triển nền nông nghiệp bền vững. HÀ VÂN AN