“Nuôi rau” ở Song Tử Tây
(QT) - Nhắc đến chuyện nuôi con, ông bố bà mẹ nào cũng lắc đầu kêu khổ vì phải chăm bẵm từng li từng tí. Nhưng ra xã đảo Song Tử Tây (thuộc huyện đảo Trường Sa) mới thấy, những người trên đảo này “nuôi rau” còn khổ hơn. Nỗi khổ của người nuôi rau trên xã đảo cách đất liền gần 600 km này phải để ý lắm mới thấy, bởi nó vô cùng tỉ mẩn. Người “nuôi rau” phải giành giật sự sống cho rau trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đảo. Màu xanh của rau với cuộc sống trên đảo nói một cách đơn giản, đó là ...

“Nuôi rau” ở Song Tử Tây

(QT) - Nhắc đến chuyện nuôi con, ông bố bà mẹ nào cũng lắc đầu kêu khổ vì phải chăm bẵm từng li từng tí. Nhưng ra xã đảo Song Tử Tây (thuộc huyện đảo Trường Sa) mới thấy, những người trên đảo này “nuôi rau” còn khổ hơn. Nỗi khổ của người nuôi rau trên xã đảo cách đất liền gần 600 km này phải để ý lắm mới thấy, bởi nó vô cùng tỉ mẩn. Người “nuôi rau” phải giành giật sự sống cho rau trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đảo. Màu xanh của rau với cuộc sống trên đảo nói một cách đơn giản, đó là màu của cuộc sống thường nhật, thứ rất khó tìm trên những hòn đảo ở Trường Sa. Nhường nước ngọt ...cho rau Song Tử Tây mùa này nắng ít nhưng gắt. Đây đã là tháng thứ ba của mùa khô, cũng là giai đoạn người “nuôi rau” vất vả nhất. Dù đảo đã có một máy lọc nước biển thành nước ngọt nhưng người dân sống trên đảo này vẫn chủ yếu dựa vào nguồn nước mưa để ăn uống. Nước giếng là nước lơ lớ, không thể ăn uống, chỉ dùng tắm, giặt và tưới rau. Nước ngọt trên đảo vì thế quý vô cùng.

Nuôi rau trên đảo phải kiêm luôn làm “bà đỡ” cho rau, vì không có nhiều côn trùng mang phấn đi

Bốn giờ chiều. Mặt trời vừa khuất sau quầng mây nơi chân trời. Thượng úy Lâm Thao bưng một rổ rau xanh ra phía bể nước mưa rửa để chuẩn bị nấu bữa tối. Vòi nước được vặn thành dòng nhỏ rỉ rả vừa đủ để lấp xấp ngang số rau trong thau nhựa. Thượng úy Thao nói nước ngọt mùa khô, hiếm lắm nên không được phí dù chỉ một giọt. Rửa xong rổ rau, tất cả nước rửa được đổ vào một thau khác để đó. Xong việc, Thượng úy Thao cùng hai chiến sĩ khác hai tay xách hai thùng chứa nước ra khu vực giếng cách vườn rau hơn chục mét. Tổ Thượng úy Thao được phân chăm một luống cải và một luống rau dền trắng trong khu nhà vòm. Thận trọng gắn vòi hoa sen cho hai thùng nước, Thượng úy Thao lướt qua lướt lại mấy lượt ở luống rau dền. Còn một ít nước trong thùng, Thượng úy Thao xách ngược ra lại giếng “trả”, nhất quyết không tưới lên luống rau cải xanh mướt ngay bên cạnh. “Rau cải khó nuôi lắm. Tưới nước giếng này vào là chết ngay”, Thượng úy Thao vừa nói, vừa đi vào phía bể nước ngọt. Sau khi dốc hết số nước ngọt vừa dùng rửa rau vào thùng, vẫn chưa được một nửa, Thượng úy Thao leo lên miệng bể chứa mở nắp ra gật gật đầu rồi xuống “mạnh dạn” kê thùng vào vòi nước xả cho đầy, xong hồn nhiên xách đi tưới hết luống cải. Thượng úy Thao cho biết mỗi ngày đều phải “tắm” cho luống cải này một xô đầy nước ngọt như thế. Tiếc một ngày là cải chết ngay. Mà cải chết thì nguồn rau xanh của anh em trong đội không đảm bảo.

Các chiến sĩ trên đảo Song Tử Tây phải tưới rau mỗi ngày để đảm bảo sự sống cho rau

Thượng úy Thao ở đảo này hai đợt, đã ba năm. Anh chủ yếu làm công tác “nuôi rau” nên quá rành rọt các “quy tắc vàng” để trồng rau sống được trên đảo này. Nỗi ám ảnh ảnh lớn nhất đối với rau trên đảo này là gió muối. Đây là cách gọi của gió khi biển động, gió mang hơi muối từ biển táp vào cây. Không cây gì sống nổi. Cũng vào mùa khô hai năm trước, khi đó mấy tháng không mưa. Máy lọc nước biển chưa hoạt động. “Nước mưa dự trữ trong bể chỉ còn một phần ba. Không tưới thì rau chết. Không có rau xanh thì đối với bộ đội trên đảo cũng chẳng khác nào không có nước ngọt. “Tính lui tính tới, anh em quyết định nhường một phần nước ngọt trong bể để “nuôi rau”. Anh em hạn chế sử dụng, chờ mưa”, Thượng úy Thao kể. Ở ngay sát vách nhà vòm là một giàn dưa chuột. Chập tối, Đại úy Đinh Cao Toan, người quản lý vườn rau ở đây mang theo một que nhựa, một đầu gắn bông gòn kéo chúng tôi vào nhà vòm. Một chiến sĩ nói với theo đùa rằng sắp được đi xem anh Toan làm “bà đỡ” cho rau. Mà đúng là “bà đỡ” thật. Đại úy Toan nhẹ nhàng nâng một cánh hoa dưa chuột đực lên rồi dùng que bông gòn chấm chấm tỉ mỉ. Xong lại quay qua tìm hoa cái của cây này và lại chấm chấm que bông gòn vừa nãy. “Trên đảo không có các loại côn trùng để thụ phấn, nên anh em phải tự thụ phấn cho hoa”, Đại úy Toan kể.

Thượng úy Lâm Thao bên luống cải xanh tốt do tổ mình chăm bẵm mỗi ngày

Tối. Bất chợt một ánh đèn lóe lên ở vườn rau. Hai ba chiến sĩ đang cặm cụi vạch từng lá rau ra để bắt sâu. Anh Toan cho biết, lịch chăm rau mỗi ngày đều đặn như thế. Rau sống được đã khó. Rau tươi tốt còn khó hơn. “Nói “nuôi rau” trên đảo khó hơn nuôi con là vì vậy”, anh Toan chậc lưỡi. Xúc từng bao đất về trồng rau “Gió muối” không chỉ ám ảnh vườn rau của bộ đội mà ngay cả vườn rau của những hộ dân và nhà chùa trên đảo cũng thế.

Ông Nguyễn Mạnh Hồng, Chính trị viên xã đảo Song Tử Tây cho biết, so với mấy năm trước thì hiện nguồn rau trên đảo đã đảm bảo hơn rất nhiều. Tổng diện tích trồng rau trên đảo là hơn 1.000 m 2 . Mỗi năm tự sản xuất được hơn 15 tấn rau củ các loại. Mỗi phân đội đều được phân công trồng rau và xem đây như một nhiệm vụ quan trọng phải hoàn thành. Các phân đội còn phải thi đua để trồng thật nhiều rau. “Với đảo, rau cũng quan trọng như cơm gạo vậy”, ông Hồng nói.

Phía sau ngôi chùa trên đảo Song Tử Tây là một vườn rau xanh tươi tốt do chính trụ trì Thích Thành Đạt trồng. Thầy Đạt kể ban đầu mới ra đảo cũng trồng rau ngoài tự nhiên, nhưng chỉ được vài bữa là héo úa do hơi muối và nắng gió. Sau một thời gian, thầy bắt đầu nghĩ đến việc tạo nhà kín cho vườn rau của mình. Vật liệu không có, thầy đi quanh đảo xin các đoạn sắt vụn từ các công trình và xin luôn một số đoạn dây thừa của đường dây cáp điện thoại. Về, thầy tỉ mỉ ngồi nối từng đoạn sắt lại thành khung, rồi dùng dây cáp đan quanh khung thép trước khi phủ một lớp lưới bên ngoài. Thầy Đạt được xem là người “nuôi rau” kỹ nhất trên đảo này. Thầy gọi vào đất liền nhờ mua phân bò khô gửi ra để bón rau thay vì gửi thực phẩm ra. Thầy Đạt cười bảo rằng cũng có thể gửi rau từ đất liền ra, nhưng cũng chỉ ăn được vài bữa, chi bằng gửi phân từ đất liền ra tự trồng rau xanh tốt quanh năm, tự túc nguồn rau cho mình là tốt nhất. Vườn rau của thầy Đạt cũng được đánh giá là hiện đại nhất khi thầy “dám” nối thẳng đường ống dẫn nước từ bể chứa nước mưa ra vườn tưới rau. Thầy cũng gửi mua một hệ thống các van phun sương tự động cho rau đủ nước sống. “Ở nơi nước ngọt để ăn uống phải hứng từng giọt nước mưa mà thầy đã dám “ưu ái” cho vườn rau của mình dùng nước như người vậy là quá kỳ lạ rồi”, anh Nguyễn Tấn Kiệt, một hộ dân trên đảo tấm tắc. Nhà anh Kiệt cũng như các hộ dân khác sinh sống trên đảo này đều tập trung “nuôi rau” để có rau xanh ăn quanh năm. Vườn rau nhà anh Kiệt dù chỉ là một khoảng nhỏ tầm hơn chục mét vuông phía sau vườn nhưng cũng có khá nhiều các loại rau được trồng. Cũng đối mặt với nỗi ám ảnh mang tên gió muối nên ban đầu anh vò đầu bứt tai vì rau mới trồng chưa kịp ra chồi đã quăn lại. Sau anh dùng mấy tấm màn của nhà mình phủ lên rau, rồi đào hố sâu xuống gần cả mét để trồng rau tránh gió muối. Câu chuyện trồng rau của nhà anh cũng lắm gian nan, nhưng lại gian nan theo một cách rất riêng. Nơi đất nhà anh ở chỉ cách mép biển hơn hai chục mét nên toàn đá vôi hoặc san hô. “Những ngày mới ra cuốc xuống đất nghe rần rật nơi tay là biết không thể trồng gì được rồi. Sau hai vợ chồng bàn bạc hạ quyết tâm phải trồng rau xanh bằng được. Muốn bám trụ trên đảo phải trồng được rau xanh”, anh Kiệt nhớ lại. Sau khi đi khảo sát một vòng quanh đảo, anh phát hiện được hai chỗ có đất thịt. May mắn hơn nữa là khoảng đất thịt này có lớp phân chim rất dày do một thời gian dài tích tụ. “Hai vợ chồng tui hì hục đào hố rồi thay nhau đi lên chỗ gần trung tâm xã hốt từng bao đất về rải một lớp khoảng hơn một gang trên mặt hố rồi mới bỏ giống rau xuống. Chao ôi! Phải nói là mừng khi mấy ngày sau thấy mầm rau chui lên thật”, anh Kiệt nói. Đến nay, vườn rau nhà anh không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu của gia đình, mà thi thoảng còn ...dư rau. Anh đem lên cho bộ đội. Những hộ dân khác cũng nhờ thế đủ rau ăn quanh năm. Anh Kiệt tâm sự: “Cuộc sống càng giống đất liền thì dân như tui càng thêm niềm tin để bám trụ. Nếu chỉ ăn măng hộp hoài thì chắc cũng đến khi ngán thôi”. Bài, ảnh: QUỐC NAM