Vị tướng của chiến trận và mối tình đẹp với cô nữ sinh Phú Yên
(QT Xuân) - Là một trong những người con ưu tú của mảnh đất Quảng Trị yêu thương, Đại tướng Đoàn Khuê (1923 – 1999), nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là nhà chính trị, quân sự xuất sắc của Đảng, của quân đội ta, người có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một vị tướng trọn đời binh nghiệp... Còn nhớ trong điếu văn của Ban chấp hành Trung ương Đảng đọc tại Lễ tang Đại tướng Đoàn Khuê có đoạn viết: “Đồng chí Đoàn Khuê là một tấm ...

Vị tướng của chiến trận và mối tình đẹp với cô nữ sinh Phú Yên

(QT Xuân) - Là một trong những người con ưu tú của mảnh đất Quảng Trị yêu thương, Đại tướng Đoàn Khuê (1923 – 1999), nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là nhà chính trị, quân sự xuất sắc của Đảng, của quân đội ta, người có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một vị tướng trọn đời binh nghiệp... Còn nhớ trong điếu văn của Ban chấp hành Trung ương Đảng đọc tại Lễ tang Đại tướng Đoàn Khuê có đoạn viết: “Đồng chí Đoàn Khuê là một tấm gương sáng về phẩm chất của người cách mạng và anh Bộ đội Cụ Hồ. Từ trong lao tù, ngoài chiến trận, khi công tác hay trong sinh hoạt, đồng chí luôn luôn thể hiện đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh, sống trung thực, thẳng thắn, nghiêm nghị, giản dị, cần, kiệm, nghiêm khắc với mọi biểu hiện hình thức, quan liêu; chan hòa, gần gũi, đồng cảm với cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, đồng chí…”

Đại tướng Đoàn Khuê và phu nhân

Đại tướng Đoàn Khuê, bí danh là Võ Tiến Trình, sinh ngày 29/10/1923 ở làng cát ven biển Gia Đẳng, xã Triệu Tân (nay là xã Triệu Lăng), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ Đoàn Khuê theo học ở làng và lớn lên học trường tư ở thị xã Quảng Trị. Năm 1939, khi mới 16 tuổi, chàng học sinh nghèo Đoàn Khuê tham gia phong trào Thanh niên phản đế ở Trường tiểu học Trường Xuân. Hoạt động được một thời gian, Đoàn Khuê bị bắt ngày 30/10/1940 khi đang là người phụ trách phong trào Thanh niên phản đế của huyện Triệu Phong. Mặc dù tra tấn dã man nhưng không lay chuyển được ý chí kiên cường của người thanh niên yêu nước có bí danh là Võ Tiến Trình, thực dân Pháp đã đày đồng chí lên Buôn Ma Thuột với bản án 8 năm tù. Những ngày ở trong nhà ngục, Đoàn Khuê đã tranh thủ học tập, trui rèn bản lĩnh, học tiếng dân tộc ở Tây Nguyên, và học những kiến thức, nhất là kinh nghiệm quân sự ban đầu để khi ra tù trở về hoạt động, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Đầu năm1945, thoát khỏi nhà lao, Đoàn Khuê trở về hoạt động gây cơ sở cách mạng ở Quảng Bình, được cử làm Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh đến tháng 8/1945 tham gia giành chính quyền ở đây. Từ năm 1946, trải qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, 12 năm kháng chiến chống Mỹ (1963-1975) và 8 năm xây dựng, bảo vệ đất nước (1975-1983), ông đã liên tục chiến đấu, chỉ huy chiến đấu ở chiến trường Khu 5. Trong kháng chiến chống Pháp, từ năm 1946, ông là Chính trị viên Trường Lục quân Quảng Ngãi rồi làm Chính ủy nhiều trung đoàn và khi kết thúc kháng chiến chống Pháp là Phó Chính ủy Sư đoàn 305. Trung đoàn chủ lực 108, ông là Chính ủy, là trung đoàn duy nhất được nhận cờ khen của Bộ Quốc phòng trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 ở Liên khu 5. Trung đoàn 108 mở đầu chiến cuộc Đông Xuân của Liên khu bằng trận đánh tiểu khu Mang Đen - vị trí án ngữ cửa ngõ tây Quảng Ngãi và là tiền đồn bảo vệ Kon Tum-một cứ điểm kiên cố của Pháp ở Liên khu lúc bấy giờ. Trực tiếp chỉ huy trung đoàn chiến đấu là Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu và Chính ủy Đoàn Khuê. Trận đánh đêm 27/1/1954, trung đoàn đã tiêu diệt hoàn toàn tiểu khu lúc trời sáng rõ. Trên đất Bắc từ 1954-1962, tạm xa Liên khu 5, ông lần lượt trải qua nhiều nhiệm vụ, trong đó có thời kỳ là Chính ủy Lữ đoàn 270 khu vực giới tuyến quân sự, Phó Chính ủy Quân khu 4. Ở Lữ đoàn 270, ông cùng ban chỉ huy phối hợp Công an vũ trang, Đoàn đặc công nước 126 Hải quân và các lực lượng khác cùng Đảng bộ địa phương xây dựng Vĩnh Linh thành lũy thép anh hùng. Năm 1963, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào thời kỳ quyết liệt, Khu 5 bị địch đánh phá có vùng trắng đất trắng dân, ông được cử trở lại chiến trường với cương vị Phó Chính ủy Quân khu. Ông đã cùng Bộ Tư lệnh Quân khu do tướng Chu Huy Mân đứng đầu thành lập 3 sư đoàn 3, 2, 1. Khu 5 trở thành địa phương “đi đầu diệt Mỹ” với những trận đánh, chiến dịch nổi tiếng trong lịch sử như Núi Thành (26/5/1965), Ba Gia (29/5-20/7/1965), Vạn Tường (18-19/8/1965), Pleime (19/10-26/11/1965), Đồng Dương (17/11-18/12/1965). Cuối năm 1976 đến tháng 3/1983, ông là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 gồm cả dải Nam Trung bộ và Tây Nguyên rộng lớn, có cả Bình Thuận và Lâm Đồng. Năm 1983, rời Quân khu 5 ông được phân công làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719, Phó Trưởng đoàn chuyên gia giúp bạn Campuchia. Quê ở Quảng Trị nhưng Đoàn Khuê chiến đấu và trưởng thành ở Quân khu 5, nên đất Nam Trung bộ luôn nhớ đến ông với rất nhiều kỷ niệm sâu sắc, ân tình. Từ 1987 - 1997, ông là Tổng Tham mưu trưởng, rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị lãnh đạo chiến lược này, ông đã cùng Quân ủy Trung ương xây dựng quân đội trong hoàn cảnh mới. Ông đã dành nhiều thời gian xuống các đơn vị, vì theo ông, mọi vấn đề đều được đúc rút từ thực tiễn. Tướng Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng viết: “Tướng Đoàn Khuê tiêu biểu về đức hy sinh, về trí sáng tạo trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc… Đặc biệt, trong những tình huống khó khăn, trước những bước ngoặt chiến lược, đồng chí luôn nêu cao dũng khí và trí tuệ cách mạng, tin tưởng vào sức mạnh của bộ đội và nhân dân”. Thời kỳ làm Bộ trưởng Quốc phòng (1991-1997), ông đã chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu và Quân chủng Hải quân tổ chức hệ thống quan sát tại chỗ, tăng cường thu thập tin tức từ nhiều nguồn khác nhau để xử lý kịp thời, chính xác các hoạt động xâm phạm của nước ngoài. Ông đề xuất, góp phần vào việc đánh giá tình hình thế giới, khu vực và cục diện cách mạng nước ta, việc điều chỉnh thế bố trí lực lượng và phòng thủ trên các hướng, các địa bàn, vùng biển đảo, biên giới, đất liền, các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa… bảo đảm khả năng phòng thủ trong mọi tình huống. Ông là người lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng các khu vực phòng thủ ở các tỉnh, thành. Ông khẳng định: “Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng vĩ đại thì yêu cầu củng cố quốc phòng, an ninh càng trọng đại và bức thiết”. (Bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ tháng 8/1996). và tình yêu đẹp với cô nữ sinh Phú Yên Gần như cả cuộc đời Đoàn Khuê, ông dành cho đất nước. Ông có hơn 30 năm tham gia chiến trận. Trong cái vẻ trầm lặng và kiên nghị, cứng rắn kia là cả một nỗi đau mất mát: Gia đình ông có đến 6 anh em là liệt sĩ, cả hai bà mẹ (mẹ đẻ và mẹ kế) đều được Nhà nước phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng… Kể về mối tình của Đại tướng Đoàn Khuê với cô nữ sinh Phú Yên xinh đẹp năm xưa, phu nhân Đại tướng, bà Trương Thị Sương bùi ngùi nhớ lại: “Anh khi ấy đang là Chính trị viên đoàn 84 đóng trong nhà tôi ở huyện Đồng Xuân. Gia đình tôi vốn là gia đình cơ sở cách mạng. Tôi lúc ấy mới mười mấy tuổi, đang đi học. Thường ngày thấy bộ đội ăn uống kham khổ, cha mẹ bảo tôi bê thức ăn lên ủng hộ, nhưng các anh lần nào cũng từ chối. Chuyện quen biết nhau chỉ sơ sài vậy. Ba tôi thì quý anh vô cùng vì anh còn trẻ mà làm người chỉ huy có đức độ, tính tình điềm đạm chuẩn mực. Ông già hay gợi ý tôi, nhưng tôi đâu có ưng. Phần vì anh lớn hơn tôi đến… 9 tuổi, lại là sĩ quan chững chạc, trong khi tôi chỉ là một cô bé học sinh…Rồi anh và đơn vị chuyển quân. Đời bộ đội trong chiến tranh nay đây mai đó. Hình như từ lâu anh đã để ý tôi. Nhưng tôi đâu có biết. Chợt một ngày từ chiến trường về thăm chốn cũ, anh ngỏ lời cầu hôn tôi, trong khi tôi vắng nhà. Ba mẹ tôi đồng ý. Ba tôi bảo: Đoàn Khuê chững chạc, hiền hậu rất đáng tin cậy… Còn nhớ ông Phạm Kiệt (sau này là trung tướng – NV) thường đến vun vén cho chuyện chúng tôi. Ông Kiệt được tôi xem như “ông mối”. Nói rồi, mọi chuyện coi như đã xong. Tôi thì vẫn đi học ở Trường Lương Văn Khánh, anh liên miên ngoài chiến trận. Chúng tôi đâu có thời gian ở cùng nhau. Thế rồi anh nói chuẩn bị ra Bắc đi học quân sự và xin cưới tôi. Tôi gật đầu lấy anh vì phục anh tính tình trung thực, thiệt thà. Đó cũng là một đức tính quý của người Quảng Trị. Vậy là cuối năm 1950, chúng tôi làm lễ cưới. Cưới xong anh ở nhà được có hai ngày, rồi lên đường ra Bắc. Hai năm sau anh về lại Quảng Ngãi. Tiếng là anh về Nam rồi, nhưng vợ chồng vẫn mỗi người một nơi. Anh ghé Phú Yên với tôi được hai ngày lại đi. Tôi thì tham gia Đoàn Thanh niên và Phụ nữ cứu quốc tại xã. Anh viết thư về cho tôi và cho cần vụ về bảo tôi ra Quảng Ngãi cùng anh. Lúc đầu tôi không chịu đi, sợ anh vướng bận gia đình. Nhưng rồi tôi vẫn đồng ý ra Quảng Ngãi cùng anh. Nhưng ra đấy ở nhờ nhà dân chờ mãi, anh còn đi trận mạc chưa về. Rồi có tin ngừng bắn, anh về thăm tôi. Đêm ấy anh thức làm việc suốt đêm… Đến tháng 10/1954 tôi được đi tập kết ra Bắc, còn anh vẫn ở lại Khu 5. Ra ngoài ấy tôi ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Sau đó anh cũng ra và ở Thanh Hóa. Anh về thăm chỉ có một ngày. Ra Hà Nội, tôi đi học y tá ở Nhà thương Phủ Doãn, còn anh đóng trên Sơn Tây. Mỗi lần anh về thăm, chúng tôi lại phải đi thuê nhà ở cùng nhau. Tôi sinh đứa con đầu thì anh ở Sơn Tây, sinh đứa thứ hai, anh đang trong Nghệ An. Năm 1963, anh lại được điều động đi B, nghĩa là lại về Nam chiến đấu. Tôi thì xin đi học y sĩ chuẩn bị vào chiến trường… Rồi tôi lại tình nguyện vào Nam, đi bộ hai tháng trời thì vào đến Ban dân y Khu 5. Thương chúng tôi xa cách mãi, anh Năm Công (đồng chí Võ Chí Công) quyết định điều tôi sang Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Về Nam, chúng tôi để hai con lại miền Bắc cho em dâu anh Khuê, tức vợ Trung tướng Đoàn Chương. Nỗi nhớ các con càng làm cho chúng tôi thêm nghị lực phấn đấu để mau đến ngày thống nhất đoàn tụ. Về sau các con sang Trung Quốc học trường học sinh miền Nam mang tên Nguyễn Văn Bé…”. Bà kể bà cũng là một quân nhân, khi về hưu được phong quân hàm Thiếu tá. Gia đình Đại tướng cả ba anh em còn lại đều là sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước lúc chia tay, tại căn nhà trên phố Lý Nam Đế, Hà Nội, bà Trương Thị Sương xúc động đọc cho tôi những vần thơ bà viết tặng ông, với tất cả tình yêu thương cao cả và trung thành. Trong bài thơ “ Nỗi nhớ thương anh ”, bà Sương viết: “ Anh Khuê ơi! Em biết nói gì nỗi nhớ thương anh/ Đã thành vợ chồng 47 mùa xuân/ Nhưng nào có gần nhau là mấy/ Chỉ một phần ba thời gian như vậy/ Là em được gần bên anh/…Ngờ đâu căn bệnh hiểm nghèo ác nghiệt/ Như cơn lốc bất ngờ ập đến/ Phải chăng là di họa chiến tranh? ...”. Bài thơ “ Tâm nguyện anh ” bà Sương cảm động viết về đức hy sinh và tấm lòng cao cả của ông: “ Những năm dài chiến tranh/Anh xông pha nơi chiến trận/ Trường Sơn hùng vĩ có hình bóng anh/ Từ biên cương, hải đảo xa xôi/ Dấu chân anh in khắp mọi nơi/ Tâm nguyện làm theo lời Bác/…Nguyện một lòng son sắt/Vì Đảng vì dân ”. Có thể nói cuộc đời Đại tướng Đoàn Khuê là một cuộc đời thật đẹp. Đó là một cuộc đời của một người yêu nước, sinh ra trong một gia đình cách mạng, ông đã hy sinh cả tháng ngày hạnh phúc riêng tư để cống hiến trọn vẹn cho đất nước và nhân dân. Và trong cuộc đời ông, bên cạnh một vị tướng trận mạc lẫy lừng, có một người phụ nữ xinh đẹp, đoan trang mẫu mực. Bà đã đồng hành cùng ông trong cuộc đời quân nhân oanh liệt nhưng nhiều biến động và gian truân. Bài, ảnh: TÂN LINH